200 năm Ngày sinh danh nhân Nguyễn Đình Chiểu: Sự nghiệp vẻ vang, lưu danh muôn thuở

29/06/2022 10:33 GMT+7 | Văn hoá

Đối với người Nam bộ nói riêng và người Việt Nam nói chung, Nguyễn Đình Chiểu không chỉ là một nhà thơ, nhà văn hóa lớn mà còn là một tấm gương sáng về nhân cách, đạo đức, tiêu biểu cho văn hóa của đất nước.         

Hội thảo khoa học quốc tế đầu tiên về Danh nhân Nguyễn Đình Chiểu

Hội thảo khoa học quốc tế đầu tiên về Danh nhân Nguyễn Đình Chiểu

Cuối tháng 6/2022, Hội thảo khoa học quốc tế đầu tiên về một Danh nhân Nam Bộ - Danh nhân Nguyễn Đình Chiểu sẽ được tổ chức tại “Xứ Dừa” Bến Tre.

Ông sinh vào ngày này cách đây 200 năm - ngày 1/7/1822.        

Danh nhân Nguyễn Đình Chiểu hay còn được gọi là Cụ đồ Chiểu, tự là Mạch Trạch, Hiệu Trọng Phủ Hối Trai, sinh ngày 1/7/1822 tại Làng Tân Thới, Phủ Tân Bình, huyện Bình Dương, Tỉnh Gia Định, nay thuộc Quận 1, TP Hồ Chí Minh.         

Trong lịch sử văn hóa Việt Nam, Nguyễn Đình Chiểu có vị trí danh dự, là một nhà văn hóa tiêu biểu của dân tộc Việt Nam. Triết lý văn hóa của Nguyễn Đình Chiểu là triết lý nhân sinh. Tư tưởng của Nguyễn Đình Chiểu dường như đã vượt qua tư tưởng Tống Nho chính thống. Tư tưởng Nho giáo của Nguyễn Đình Chiểu đang trên quá trình Việt hóa - bình dân hóa một cách sâu sắc. Triết lý ấy thể hiện trong bài Than đạo:

Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà.     
    

Dù bản thân mù lòa nhưng ông lại có một trái tim sáng chói, nhìn rõ hết mọi việc của thế nhân, ông kiên quyết chống lại những thế lực đen tối bằng chính ngòi bút tài hoa, với những câu chuyện mang đậm tính nhân văn.

Các tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu để đời có truyện thơ Nôm: Lục Vân Tiên, Dương Từ - Hà Mậu, Ngư tiều y thuật vấn đáp. Các tác phẩm thơ lẻ, văn tế: Chạy giặc, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Văn điếu Trương Định, Văn tế lục tỉnh sĩ dân trận vong…         

Chú thích ảnh
Nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu và tác phẩm nổi tiếng nhất của ông - "Lục Vân Tiên"

Theo nhà nghiên cứu Châu Anh Phụng, một người đã dành cả cuộc đời sưu tầm về Nguyễn Đình Chiểu, “nhiều học giả, dịch giả Pháp và các nước  đều nhận định Nguyễn Đình Chiểu là một nhà văn hóa có tầm vóc nhân loại”.         

Theo PGS.TS.Đoàn Lê Giang: “Lục Vân Tiên được dịch ra tiếng Pháp, bắt đầu từ bản của G.Aubaret (1864), sau đó có bản dịch của Abel des Michels (1883), E.Bajot (1886), Nghiêm Liễn (1927), Dương Quảng Hàm (1944), Lê Trọng Bổng (1997)… có ít nhất 6 bản tiếng Pháp. Năm 1985, Lục Vân Tiên còn được dịch ra tiếng Nhật với bản dịch của Giáo sư Takeuchi Yonosuke. Năm 2016, Lục Vân Tiên được dịch ra tiếng Anh với bản dịch của ÉricRosencrantz. Với 3 thứ tiếng và 8 bản dịch, Lục Vân Tiên là tác phẩm văn học Việt Nam được dịch ra ngoại ngữ nhiều thứ ba sau Truyện Kiều (21 thứ tiếng, hơn 70 bản dịch) và Nhật ký trong tù của Chủ tịch Hồ Chí Minh (khoảng 16 thứ tiếng, 20 bản dịch)…”.         

Nếu như truyện thơ Nôm Lục Vân Tiên, một sáng tác đầu đời khi vừa gặp trắc trở của số phận, nêu chuyện đạo lý con người, sống nhân nghĩa: Trai thời trung hiếu làm đầu/ Gái thời tiết hạnh là câu trau mình; thì truyện thơ Nôm Dương Từ - Hà Mậu lại khuyến cáo con người nên tìm về chính đạo, biết yêu cái chính, ghét cái tà, con người phải biết tu thân. Truyện thơ Nôm Ngư Tiều y thuật vấn đáp, một quyển sách dạy nghề làm thuốc chữa bệnh, sáng tác những năm cuối đời vẫn đậm đà tư tưởng ấy của Nguyễn Đình Chiểu; đạo đức của người thầy thuốc, tư tưởng yêu nước và nội dung y thuật đan cài với nhau. Có thể thấy tư tưởng của nhà văn hóa Nguyễn Đình Chiểu ở các khía cạnh: đạo nghĩa, làm việc nghĩa, tu thân (vỏ là Nho giáo mà lõi là phong cách sống của người Việt Nam Bộ: thấy việc nghĩa không làm là đồ bỏ).

Chú thích ảnh

Nguyễn Đình Chiểu là một mẫu hình nhân cách văn hóa. Từ chối của Nguyễn Đình Chiểu trước đề nghị của viên Tham biện tỉnh Bến Tre, Michel Ponchon năm 1883, không nhận tiền bạc, quà tặng, không nhận lại ruộng vườn của ông ở Gia Định mà người Pháp chiếm đoạt qua câu nói khảng khái trước Michel Ponchon “Đất vua không ai trả thì đất riêng của tôi có sá gì”, là bằng chứng xác thực nhất về phẩm chất không màng danh lợi của một nhân cách lớn. Ở phương diện công dân, biến cố đau thương của đất nước khi bị xâm lược, khiến Nguyễn Đình Chiểu càng thể hiện rõ phẩm chất của một nhà văn hóa lớn. Cả cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu sống theo triết lý này. Hành động trong cuộc sống thường ngày của Nguyễn Đình Chiểu là công việc của một thầy giáo.         

Nguyễn Đình Chiểu không ngừng học tập và truyền dạy kiến thức. Ông lắng nghe, tự học qua người thân, học thuộc lòng kiến thức y học, các sách vở thánh hiền. Mở trường dạy học, thầy giáo Nguyễn Đình Chiểu dạy bằng trí nhớ thông qua truyền khẩu. Nhiều học trò của cụ Đồ đã đỗ đạt, trong đó, có con gái của ông là bà Nguyễn Thị Khuê (bút hiệu Sương Nguyệt Anh) - nhà thơ nữ, chủ bút đầu tiên của tờ báo Nữ giới chung Việt Nam xuất bản năm 1918 và Nguyễn Đình Chiêm (1869-1935) - làm nghề đông y, ngoài sáng tác, dịch thơ, ông còn là tác giả tuồng… Cả hai học trò Nguyễn Thị Khuê và Nguyễn Đình Chiêm của thầy giáo Nguyễn Đình Chiểu đều là những nhân vật có đóng góp sâu sắc cho sự đổi mới của văn hóa Việt Nam đầu thế kỷ XX.       

Cùng với việc mở trường dạy học, ông còn bốc thuốc chữa bệnh. Từ năm 28 tuổi đến khi qua đời năm 67 tuổi, gần 40 năm Nguyễn Đình Chiểu là thầy thuốc chữa bệnh cứu người. Với ông, "y dân" cũng là "y quốc", có nghĩa vừa chữa bệnh cứu người đồng thời thay đổi đời sống của dân, vận mệnh của đất nước mà tác phẩm Ngư Tiều Y thuật vấn đáp của ông là một minh chứng nói lên tâm sự của mình đối với nghề y, tình yêu với quê hương, đất nước.         

Xưa rằng: Thầy thuốc học thông
Thể theo trời đất một lòng hiếu sinh
Giúp người chẳng vụ tiếng danh
Chẳng màng của lợi, chẳng ganh ghét tài    

Có thể thấy, từ triết lý văn hóa thể hiện trong sáng tác văn chương đến hành động trong cuộc đời dạy học, làm thầy thuốc, ở Nguyễn Đình Chiểu luôn có sự nhất quán.   

Danh nhân văn hóa Nguyễn Đình Chiểu mất ngày 3/7/1888 tại Ba Tri (Bến Tre). Tài năng, tiết tháo của ông đã làm nên sự nghiệp vẻ vang, lưu danh muôn thuở.         

Danh nhân văn hóa Nguyễn Đình Chiểu đã sống xứng đáng với nước với dân, xứng đáng là một trí thức dấn thân, một bậc thức giả yêu nước thương dân dùng ngòi bút đấu tranh không mệt mỏi. Ông là một tấm gương sáng ngời cho trí thức mọi thời đại.

Phương Phương/TTXVN (tổng hợp)

Cùng chuyên mục
Xem theo ngày
Đọc thêm