Làm gì với truyền thống ‘coi sách’ của người Việt?

19/04/2019 19:00 GMT+7

(Thethaovanhoa.vn) - Do đặc thù lịch sử nên người Việt xưa nay coi trọng kinh nghiệm thực tiễn hơn là sách vở lý thuyết. Sự học do đó cũng chủ yếu là học thực hành: “Trăm hay không bằng tay quen”; “Thuốc dạy thầy, cây dạy thợ”….

Đánh giá nhu cầu tiếp cận tri thức thông qua sách

Đánh giá nhu cầu tiếp cận tri thức thông qua sách

Đánh giá nhu cầu tiếp cận tri thức thông qua sách là một trong những nội dung được các đại biểu dành sự quan tâm tại Hội thảo khoa học “Xây dựng và phát triển phong trào đọc sách trong cộng đồng” tổ chức ngày 17/4, tại Hà Nội.

Đọc sách và học sách rất xa lạ với dân gian Việt Nam xưa. Do đó, kho tàng tri thức của cộng đồng truyền đời cũng chỉ là tri thức dân gian, truyền miệng chứ không phải sách vở. Vả lại, trước 1945 hơn 95% dân số Việt Nam mù chữ, thì sách vở nếu có cũng gần như không.

Chú thích ảnh
"Độc thư cách ngôn" do Hải Châu Tử biên tập, Văn Sơn đường tàng bản (Hải Dương, 1895) là cuốn sách hiếm hoi của Việt Nam kết tập các lời khuyên của các danh nhân để lại cho đời sau học tập

Xã hội Việt Nam truyền thống phân ra 4 giai tầng (tứ dân) là sĩ, nông, công, thương; trong đó chỉ có tầng lớp sĩ là đọc sách, còn 3 tầng lớp kia thì gần như không. Bởi vậy mà kẻ sĩ ngày xưa được gọi là thư sinh, nghĩa là người đọc sách.

Hạng người này được quan niệm là “trói gà không chặt”, chân yếu tay mềm và nằm ngoài guồng máy sản xuất của xã hội: “Nhất sĩ nhì nông/ Hết gạo chạy rong/ Nhất nông nhì sĩ”.

Do đó, trong xã hội truyền thống phương Đông và Việt Nam xưa, chuyện vợ lam lũ nuôi chồng ăn học là thường tình: “Hai tay bưng dĩa bánh bò/ Giấu cha, giấu mẹ, cho trò đi thi”; “Sáng trăng trải chiếu hai hàng/ Bên anh đọc sách, bên nàng quay tơ”.

Chú thích ảnh
Đối với người Việt thì đọc sách vẫn chưa là nền tảng chính yếu để xây dựng nên đời sống. Ảnh mang tính minh họa

Mặc dù tỏ ra khá chuyên nghiệp như vậy, nhưng thư sinh Việt Nam vẫn chưa tạo nên một hoạt động xã hội chuyên biệt. Do đó, ở Việt Nam chỉ nghe nói đến hệ tứ quý hay tứ thú “ngư tiều canh mục: đánh cá, đốn củi, cày ruộng, chăn trâu; còn hệ “ngư tiều canh độc”: đánh cá, đốn củi, cày ruộng, đọc sách thì ít được nói tới.

Tầng lớp Nho sĩ Việt Nam ngày xưa chắc chắn phải đọc sách và học sách rất nhiều: “Theo thầy nấu sử sôi kinh/ Tháng ngày bao quản sân Trình lao đao” - Lục Vân Tiên. Để sau đó lều chõng đi thi, tung hoành giữa chốn trường văn trận bút.

Chú thích ảnh
Tỷ phú Bill Gates luôn nói với trẻ em rằng do bản thân học hành dang dở nên luôn dựa vào việc đọc sách để làm việc. Ảnh mang tính minh họa

Nhưng xét trong đại chúng thì thực sự mà nói, trong văn hóa Việt Nam không thấy có truyền thống đọc sách mà chỉ có truyền thống xem (coi) sách: “Trước đèn xem truyện Tây Minh/ Ngẫm cười hai chữ nhân tình éo le” - Lục Vân Tiên; “Nhựt trình Vĩnh Ký đặt ra/ Chép làm một bổn để mà coi chơi” - Thơ thầy Thông Chánh, khuyết danh; “Sách hay mua lấy để mà coi/ Hỏi mượn không cho nói hẹp hòi” - khuyết danh.

Coi sách và đọc sách đương nhiên khác nhau về mức độ đầu tư và công phu. Đọc sách phải tốn hàng tuần, hàng tháng mới xong một cuốn sách, nhưng coi sách thì mỗi lần chỉ cần vài phút, vài giờ và chỉ thỉnh thoảng giở ra xem khi cần.

Chú thích ảnh
Tìm cách khích lệ trẻ em đọc sách là giải pháp chính yếu nhất. Ảnh mang tính minh họa

Đến đầu thế kỷ 20, nhờ kỹ thuật in ấn của phương Tây nên lượng sách vở ở Việt Nam cũng tăng lên, nhưng nhìn chung người dân vẫn chưa có thói quen đọc sách, mà thay vào đó, họ chỉ chủ yếu xem sách và chơi sách. Bởi vậy, trong khi chưa có người Việt Nam nào viết về thú đọc sách thì đã có Thú chơi sách (1960) và Thú xem truyện Tàu (1970) của Vương Hồng Sển.

Truyền thống coi sách nói trên cho thấy mức độ dụng công và chuyên nghiệp của chủ thể. Và một khi chỉ là người coi sách chứ không phải đọc sách thì thiết nghĩ không thể gọi là thư sinh.

Hơn nữa, thực tế lịch sử Việt Nam có nhiều biến động. Và trong những giai đoạn rối ren loạn lạc, người trí thức dễ cảm thấy sách vở hầu như vô dụng: “Đọc ba vạn sách không dùng/ Bạc đầu luống phụ tấc lòng thương dân” - Trần Nguyên Đán; “Sách vở ích gì cho buổi ấy/ Áo xiêm nghĩ lại thẹn thân già” - Nguyễn Khuyến.

Đó là chưa nói đến tình trạng: sau mỗi lần thay đổi thể chế, sách vở thường bị liên lụy trước tiên, nhiều phần bị tiêu hủy. Cho nên xã hội Việt Nam xưa không thiếu nhà giàu, nhưng nhà tàng trữ nhiều sách vở thì rất hiếm. Bởi vậy nhà bác học Lê Quý Đôn mới nói: “Dẫu có bạc vàng trăm vạn lượng/ Chẳng bằng kinh sử một vài pho”.

Tình trạng khan hiếm sách trong trường kỳ lịch sử đó cũng góp phần làm nên truyền thống coi sách qua quít của người Việt, thay vì đọc kĩ sách và nghiền ngẫm.

Cho nên, trách nhiệm của chúng ta hôm nay là phải làm sao để biến truyền thống coi sách nói trên thành truyền thống đọc sách. Công việc có lẽ nên bắt đầu từ gia đình và từ lúc tấm bé của đời người.

Cho trẻ tiếp xúc với sách ngay từ tuổi ấu thơ để sớm tạo nên ý niệm về sách. Ý niệm sẽ tạo nên hành động. Một khi đã lấy sách vở làm nguồn hướng dẫn cho cuộc sống thì tất yếu sẽ làm nên thói quen đọc sách của người đó, nếu nhiều người cùng làm sẽ trở thành truyền thống đọc sách của một dân tộc.

Lê Công Lý

Cùng chuyên mục
Xem theo ngày
Đọc thêm