Bài 1: Phát hiện câu đối Lưỡng triều danh tể tướng…

28/11/2008 15:50 GMT+7 | Văn hoá

(TT&VH) - Tháng 12/2005, trong lần về Tiên Điền – Hà Tĩnh tự “Lễ kỷ niệm 240 năm, năm sinh đại thi hào Nguyễn Du”, biết tôi là người Bắc Ninh, các cụ địa phương đã ngâm cho tôi nghe đôi câu thơ - đối cổ: “Trai Tiên Điền - tinh anh Hồng Lĩnh, Gái Kinh Bắc - thanh sắc Tiêu Tương”, và tặng tôi cuốn Hoan Châu - Nghi Tiên Nguyễn gia thế phả. “Cảo thơm lần giở” cuốn thế phả của gia tộc đại thi hào Nguyễn Du, tôi như được lãng du về miền cổ tích và những trang tình sử thơ mộng.

Từ một cuốn gia phả về dòng họ Nguyễn Du
 
 Câu đối “Lưỡng triều danh Tể tướng/Nhất thế đại Nho sư”
Cụ tổ 9 đời của đại thi hào Nguyễn Du là Trạng nguyên Nguyễn Thuyến (đỗ năm 1532) vốn quê ở xã Canh Hoạch, huyện Thanh Oai, trấn Sơn Nam nay thuộc Hà Nội, có người cháu nội là Nam Dương hầu Nguyễn Nhiệm, thời Lê Trung hưng có dự mưu phục lại nhà Mạc, bị thua trận chạy về phương Nam, giấu hẳn tông tích, đến sinh cơ lập nghiệp tại Tiên Điền, trở thành người khai sáng ra dòng họ Nguyễn Tiên Điền. Đến đời thứ 6 thì dòng họ này đã nổi tiếng với Tiến sĩ khai khoa Nguyễn Nghiễm đỗ Hoàng giáp năm 1731 lúc mới 24 tuổi và Nguyễn Huệ (anh ruột Nguyễn Nghiễm) đỗ Tiến sĩ năm 1733.

Cụ Nguyễn Nghiễm làm quan thời vua Lê - chúa Trịnh lên tới chức Tể tướng - Đại tư đồ, tước Xuân quận công, có con trai trưởng là Tiến sĩ Nguyễn Khản sau này nối nghiệp cha cũng tới chức Nhập thị Tham tụng (Tể tướng ở phủ chúa) và Tả tư giảng (dạy Thế tử học), Tế tửu Quốc tử giám. Quan Tể tướng Nguyễn Nghiễm giỏi ca trù, hát xướng ra Thăng Long nhận chức đã say mê ngay giọng ca Quan họ của các liền chị vùng Kinh Bắc nên cưới thêm bà ba Trần Thị Tần quê Hoa Thiều – Hương Mạc - Từ Sơn, sinh ra đại thi hào Nguyễn Du, bà tư Nguyễn Thị Xuyên quê Hoàng Mai, Yên Dũng, Kinh Bắc sinh ra Nguyễn Quýnh.

Nhưng thông tin đáng lưu ý nhất mà cuốn gia phả cung cấp, giục giã bước chân tôi đi điền dã để sưu khảo là về bà vợ thứ 5 và người con trai thứ 5 của cụ Tể tướng: “Nguyễn Trừ (1760 - 1809 - anh trai thứ 5 của Nguyễn Du) con bà trắc thất Nguyễn Thị Xuân, người xã Tiêu Sơn, huyện Yên Phong, Bắc Ninh và vẫn lưu ở quê mẹ. Năm 1779 đỗ Tứ trường, thời Chiêu Thống được bổ Tri phủ Tam Đới. Năm đầu Gia Long được bổ Tri huyện Siêu Loại, thăng Tri phủ Kinh Môn, đổi làm Tri phủ Nam Sách. Năm Gia Long thứ 8-1809, ông mắc bệnh và mất ở đấy, thọ 50 tuổi, đem về táng ở Tiêu Sơn (quê mẹ), có con là Nguyễn Trù làm Tri phủ Vĩnh Tường, con gái là Thị Uyên xinh đẹp lại giỏi nghề thuốc được tuyển vào làm Cung tần của vua Gia Long, rất được yêu quý”.

Tìm về Tiêu Sơn chiêm ngưỡng các di vật vang bóng một thời:

Núi Tiêu Sơn với ngôi nhà cổ Thiên Tâm tự là nơi thiền sư Vạn Hạnh (người tạo dựng nên cơ nghiệp nhà Lý) đã trụ trì và bà Phạm Thị Ngà thân mẫu vua Lý Thái Tổ cũng từng làm vãi thủ hộ ở chùa này. Những vết tích của dòng Tương Giang vẫn còn hàng dãy dài ao sen nước trong mát như văng vẳng tiếng hát chàng Trương Chi làm say đắm nàng Mỵ Nương. Vậy là xã Tiêu Sơn xưa thuộc Yên Phong, nay chính là xã Tương Giang, thuộc Từ Sơn. Nhưng hỏi thăm về cụ bà Nguyễn Thị Xuân lấy chồng Hà Tĩnh sinh ra Nguyễn Trừ (anh ruột Nguyễn Du) thì các cụ cao niên cũng không có ai thông tỏ cả. Chúng tôi bèn hỏi: “Có gia đình nào mà tổ tiên xưa là danh gia vọng tộc, cha con đều là quan phủ”, thì các cụ mách chúng tôi tìm đến “Ngõ Quan Phủ” ở thôn Hưng Phúc cùng xã.
 Từ trái sang phải: Tác giả, cụ Thinh, cụ Bình, Lê Vân -
cán bộ Bảo tàng Nguyễn Du
Trong một ngôi nhà làm bằng gỗ xoan, cột cái to vừa một người ôm, cấu trúc và hoa văn họa tiết kiểu cuối Lê đầu Nguyễn chúng tôi được 2 anh em cụ Nguyễn Thinh 86 tuổi và cụ Nguyễn Thanh Bình 67 tuổi tiếp.
 
Ngắm nhìn đôi câu đối cổ, nền gỗ sơn ta màu đen, chữ thiếp vàng và phôi pha treo hai bên bàn thờ Tổ: “Lưỡng triều danh tể tướng - Nhất thế đại nho sư” (Tể tướng uy danh hai triều đại - Nhà nho lừng lẫy nhất một thời), chúng tôi vô cùng mừng rỡ vì đây, theo chép trong gia phả, chính là những từ ngữ hàm súc nhất mà vua Lê Hiển Tông đã ban cho dòng họ Nguyễn Tiên Điền, ghi nhận công lao cụ Hoàng giáp Nguyễn Nghiễm là Tể tướng kiêm Tế tửu Quốc tử giám và con trai trưởng là Tiến sĩ Nguyễn Khản cũng được giữ chức Nhập thị Tham tụng (tương đương Tể tướng), Tả tư giảng (dạy chúa Trịnh học lúc còn là Thế tử) và Tế tửu Quốc tử giám.
 
Quan sát kỹ thì thấy ở đôi câu đối có 2 dòng lạc khoản:

1) Long phi Mậu Thìn thu

2) Huân Mộc bái thư

Xét tên tự người viết “Huân Mộc” hàm nghĩa là “Tắm gội bằng nước cỏ thơm” thì có thể hợp với cụ nguyễn Trừ (1760 - 1809) con trai thứ 5 của Nguyễn Nghiễm. Vậy năm làm đôi câu đối này có lẽ là Mậu Thìn 1808, lúc cụ Nguyễn Trừ đang làm Tri phủ Nam Sách.

Ngôi mộ Quan Tri phủ Nam Sách - “bố vợ” vua Gia Long

Như trên đã nói về cụ Nguyễn Trừ - anh trai thứ 5 của Nguyễn Du - có con gái là Thị Uyên được tuyển vào làm Cung tần của vua Gia Long. Gia phả chép rằng, bà này đã sinh hạ với vua Gia Long một hoàng nữ, lên 4 tuổi thì mất. Như vậy cụ Nguyễn Trừ là “bố vợ” vua Gia Long.

Chúng tôi cùng 2 cụ Thinh và Bình ra viếng mộ cụ Tổ khai lập nên chi họ Nguyễn Tiên Điền tại Tiêu Sơn (Tương Giang) thì được đọc tấm bia đá cổ kích thước khoảng 30x50cm.

Mặt trước có khắc: Cố Nam Sách phủ tri phủ Nguyễn Hầu, Nghệ An trấn, Đức Thọ phủ, Tiên Điền xã nhân dã. Mặt sau khắc: Minh Mệnh thập nhất niên chính nguyệt cốc nhật phụng khắc ư Vĩnh Tường phủ công sở.

Những thông tin này kết hợp với ghi chép trong Hoan Châu Nghi Tiên Nguyễn gia thế phả thật phù hợp và đủ để kết luận: “Đây là ngôi mộ cụ Nguyễn Trừ - cố tri phủ phủ Nam Sách quê ở xã Tiên Điền, phủ Đức Thọ, trấn Nghệ An do (con trai là Nguyễn Trù) Tri phủ Vĩnh Tường khắc năm Minh Mệnh thập nhất (ngày lành tháng giêng năm 1830)”.
 
Bài 2: Bức hoành phi do Chánh sứ của vua Càn Long tặng
 
Nguyễn Khắc Bảo
(Hội Văn học nghệ thuật Bắc Ninh)

Cùng chuyên mục
Xem theo ngày
Đọc thêm