Bảo tồn di sản: Khi Nhà nước “lấn sân” cộng đồng...

07/03/2012 10:27 GMT+7 | Văn hoá


(TT&VH) - 15 năm trước, chúng ta đã nhắc tới những nhược điểm trong cách bảo tồn di sản văn hóa, khi để Nhà nước bao cấp và làm thay nhiệm vụ của cộng đồng. Đáng buồn, loay hoay tới giờ, bài toán ấy vẫn chưa giải xong - PGS Nguyễn Văn Huy, nguyên Giám đốc Bảo tàng Dân tộc học VN, nhận xét tại hội thảo Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa trong quá trình hiện đại hóa diễn ra tại Hà Nội ngày 6/3.

Do UNESCO và Bộ VH,TT&DL tổ chức, “xương sống” của hội thảo trên là một dự án nghiên cứu được  PGS Nguyễn Chí Bền và nhiều chuyên gia văn hóa thực hiện với các trường hợp Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương (Phú Thọ), Hội Gióng (Hà Nội), Tháp Bà Poh Nagar (Khánh Hòa), Văn hóa cồng chiêng của người Lạch (Lâm Đồng). Kết quả cho thấy: cách áp dụng chính sách “Bảo tồn có chọn lọc” tại nước ta từ 1954 tới nay đã tạo ra nhiều rào cản với việc duy trì di sản văn hóa, đặc biệt là trong bối cảnh cơ cấu kinh tế thay đổi và du lịch phát triển mạnh như hiện nay.

Chưa “khớp” với UNESCO

Theo nghiên cứu này, công ước 2003 của UNESCO nói tới việc không thể phân loại cao thấp giữa các di sản văn hóa. Trong khi đó, chính sách đang áp dụng tại Việt Nam lại là phân loại  di sản theo 3 cấp (tỉnh, quốc gia, đặc biệt) để định hướng quản lý và đầu tư”. Thậm chí, trong cùng một di sản, cách áp dụng này lại phân ra các giá trị tích cực- tiêu cực, văn minh - lạc hậu trong từng di sản để loại bỏ hoặc duy trì.

“Di sản văn hóa gồm nhiều yếu tố kết nối với nhau và mang đậm tính cộng sinh. Việc xóa bỏ các yếu tố “lạc hậu” tất yếu sẽ ảnh hưởng tới việc bảo tồn các yếu tố được “chọn lọc” và toàn bộ di sản” – PGS Bền nhận xét – “Ngoài ra, việc xếp hạng di sản cũng tạo ra sự mất cân đối trong đầu tư và tâm lý tự định kiến của cộng đồng tại các di sản không được xếp hạng, cũng như tâm lý ỷ lại với những nơi được xếp hạng”. Đơn cử, theo ví dụ mà PGS Bền đưa ra, việc thay đổi người chủ tế trong Ban Khánh tiết bằng đại diện của chính quyền trong lễ dâng hương, bổ sung các hoạt động văn hóa văn nghệ trong các lễ hội... đang là những điều làm thay đổi bản chất của các lễ hội địa phương từ cách thực hành cho đến nội dung, ý nghĩa.

Các chuyên gia (từ phải sang: PGS Nguyễn Văn Huy, TS Lê Thị Minh Lý, GS Oscar Salemink- người Đan Mạc) cho rằng tâm lý thích "hoành tráng" là điều không nên áp dụng trong bảo tồn di sản.

PGS Nguyễn Văn Huy (Ủy viên Hội đồng Di sản Quốc gia) tán thành nhận định trên bằng ví dụ về lễ bỏ mả của một số dân tộc Tây Nguyên. Trước khi được khôi phục lại cách đây vài năm, nghi lễ này đã bị cấm một thời gian dài vì lý do “mê tín”. Vì thế mà, do thiếu không gian tâm linh để vận hành, cồng chiêng Tây Nguyên cho tới nay đã bị ảnh hưởng và mai một khá nhiều.

Một trường hợp khác, cũng theo PGS Huy, tại Phú Thọ, dựa trên những “tục hèm” còn lưu giữ được, đã có nhiều trường hợp nhân dân đứng ra xin phép tự phục dựng một số lễ hội truyền thống của địa phương mình. Kết quả, các cơ quan quản lý tạm thời chưa đồng ý vì không thể xác định được là các “tục hèm” này có mê tín và dị đoan hay không. Ngược lại, cũng tại Phú Thọ,  đêm vinh danh di sản hát xoan lại nhận về một số thắc mắc của giới nghiên cứu vì lý do sử dụng hình thức hát xoan “cải biên” khác hẳn với bản chất của di sản vừa được UNESCO công nhận.

“Việc “bảo tồn có chọn lọc” cần được tham khảo rất cẩn thận và phải phù hợp với thực tế của từng cộng đồng, chứ tuyệt đối không nên hoạch định, áp đặt một cách khiên cưỡng” - PGS Huy nói.

Bài toán khó: Phát triển - bảo tồn!

Điều đáng nói, như lời PGS Huy, những nhược điểm này đã được giới nghiên cứu văn hóa nhìn ra từ nhiều năm nhưng vẫn chưa thể giải quyết triệt để. Bởi về bản chất, việc bảo tồn di sản liên quan tới hoạt động của khá nhiều ngành và thậm chí, có những xung đột với sự phát triển trong xã hội hiên đại.

“Tôi nghĩ rằng, trong việc vinh danh, chúng ta đừng đề cập quá nhiều tới việc di sản này, di sản kia đã từng được UNESCO công nhận – TS Lê Thị Minh Lý nhận xét – Đơn cử như với trường hợp Hội Gióng, chúng ta đã nói quá nhiều về vinh dự từ danh hiệu này mà có phần quên đi trách nhiệm bảo vệ các yếu tố đặc thù của di sản. Bởi thế, nhiều người đã lập tức nhắc tới việc đầu tư để Hội Gióng thay đổi theo hướng “hoành tráng” và đón được nhiều khách hơn”.

Nhà sử học Dương Trung Quốc đưa ra ví dụ về việc Việt Nam tham gia Công ước Quốc tế về chống săn bắt voi. Hệ quả là loại hình văn hóa “thuần dưỡng voi” của người Tây Nguyên đến giờ gần như đã hoàn toàn biến mất. Tương tự, cách đây vài năm, vì những kiện tụng liên quan tới Luật Đất đai, các cơ quan quản lý đã phải ngừng lại việc cấp giấy chứng nhận cho khu mộ cổ của một danh nhân thời Hậu Trần tại Nghệ An.

“Ngược lại, cũng có trường hợp những thay đổi trong xã hội hiện đại đã tạo ra hiệu ứng rất tích cực trong việc bảo tồn di sản, mà việc xây dựng cáp treo Yên Tử góp phần bảo vệ cảnh quan môi trường tại đây là một ví dụ” – ông Quốc nói- “ Nghĩa là, chúng ta đang dùng những cách ứng xử hiện đại để giải quyết những vấn đề dân gian. Cần bình tĩnh phân tích để khắc phục những mâu thuẫn từ nhỏ đến lớn trong bài toán bảo tồn – phát triển”.

Dựa trên 7 điểm khuyến nghị của bản nghiên cứu (thuộc 3 nhóm vấn đề quan điểm và phương pháp bảo tồn di sản văn hóa; quản lý di sản và chia sẻ lợi ích; giáo dục và đào tạo), ý kiến của các chuyên gia tại hội thảo sẽ được tập hợp lại để phân tích thêm, trước khi bản khuyến nghị này được hoàn thiện và gửi tới Bộ VH,TT&DL.

Chiêu Minh

Cùng chuyên mục
Xem theo ngày
Đọc thêm