(TT&VH) - Câu chuyện an ninh năng lượng năm 2009 mở đầu bằng những tranh cãi xung quanh vấn đề “mở hay không mở” bể than sông Hồng, kết thúc bằng quyết định đầu tư cho dự án điện hạt nhân ở Ninh Thuận.
Giữa sự mở đầu và kết thúc đó, cũng có những ý tưởng lạ, chẳng hạn "đi thuê đất ở Châu Phi để trồng cây nguyên liệu". Như vậy trong năm 2009, bài toán an ninh năng lượng cho ít nhất 50 năm nữa đã được quyết.
Nhưng, bài toán này có thực sự được giải, hoặc nói cụ thể hơn là trong một vài năm tới người dân cũng như các DN còn phải khốn khổ vì chuyện cắt cúp điện liên miên vì sự thiếu điện mãn tính hay không, thì lại không phụ thuộc vào các quyết sách này. Người nắm giữ chìa khoá lại là ngành điện, cụ thể hơn, là EVN, doanh nghiệp độc quyền hiện đang có cả chục dự án điện chậm tiến độ và đang đề xuất xin tăng tỷ lệ tổn thất điện năng.
Thuê đất tại Châu Phi...
Khái niệm “an ninh năng lượng” được nói đến lần đầu tiên từ cuộc khủng hoảng dầu mỏ những năm 1970. Nhưng ở Việt Nam, thời đó, học sinh Việt Nam vẫn được giảng giải rằng: Nước Việt mình là giàu có về mặt tài nguyên, là "rừng vàng, biển bạc”. Nó trái ngược hoàn toàn với những bài học của học sinh Nhật Bản rằng "Đất nước chúng ta chỉ có cát sỏi và núi lửa", cho nên trong nhiều thập niên qua, than được khai thác vô tội vạ và phung phí.
Nhà máy điện hạt nhân sẽ góp phần giải quyết an ninh năng lượng (ảnh minh họa)
Mãi cho đến những năm 2008-2009, tức là sau khi khái niệm "an ninh năng lượng", ra đời từ "khủng hoảng năng lượng" tới 40 năm, nhiều người mới giật mình rằng hóa ra than là một loại năng lượng không tái tạo. Một quan chức của ngành than, TGĐ KTV Trần Xuân Hòa công bố rằng: Vào năm 2013, Việt Nam đã phải nhập khẩu than và dự báo đến 2020, lượng than phải nhập khẩu sẽ lên đến trên 100 triệu tấn. Như vậy có nghĩa là từ vị trí một quốc gia xuất khẩu, giờ chúng ta bắt đầu phải nhập khẩu. Công bố này, cũng nhằm tạo điều kiện để họ được mở bể than sông Hồng, mà chỉ riêng khâu thăm dò để đánh giá đã mất một khoản tài chính lên tới 2,5 tỉ USD.
Mở bể than, có nghĩa là sẽ có lún sụt, sẽ có tác động tới môi trường. Và đời sống của hàng trăm ngàn người dân bị ảnh hưởng, an ninh lương thực bị đe dọa, không những thế, cơ bản nhất là sau "bể than sông Hồng" sẽ là bể nào nữa nếu như tài nguyên vẫn sử dụng theo kiểu "đào đất lấy tiền" như hiện nay? Năm 2009 cũng là một năm mà nhiều người đã nhắc đi nhắc lại mãi câu nói mà ai cũng biết: Điện là một trong những ngành xương sống của nền kinh tế. Nó chỉ “hắt hơi, sổ mũi” là nền kinh tế bị “rùng mình” theo. Kèm theo "khẩu hiệu" này, là điệp khúc thiếu điện kéo dài từ năm này qua năm khác, từ thập kỷ này qua thập kỷ khác.
Ngành điện đổ lỗi cho chuyện thiếu điện là do nhu cầu điện tăng cao. Chẳng hạn những cảnh báo rằng từ nay đến năm 2020, Việt Nam sẽ thiếu hàng chục tỷ kWh điện cho nhu cầu sản xuất và sinh hoạt mỗi năm. Cụ thể hơn, nhu cầu là 201 tỷ kWh vào năm 2020 và 327 tỷ kWh vào năm 2030. Trong khi đó, khả năng huy động tối đa tương ứng là 165 tỷ kWh và 208 tỷ kWh. Chính các chuyên gia của ngành điện cũng phải thừa nhận rằng: Xu thế rất rõ nét trong cân bằng năng lượng của Việt Nam là “cung” ngày càng nhỏ hơn “cầu”. Theo ngành điện, "Việt Nam đứng trong số 15 nước có số dân đông nhất thế giới, nhưng về nguồn năng lượng hóa thạch không tái tạo (dầu, khí, than, uranium), Việt Nam chỉ đứng vào hàng trung bình thấp của thế giới. Và do đó không thể không phát triển nguồn năng lượng tái tạo. Thế là vào kỳ họp cuối cùng của năm 2009, QH thông qua dự án điện hạt nhân Ninh Thuận.
Thống kê của Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA) cho biết, đến năm 2005, trên thế giới đã có 441 tổ máy điện hạt nhân tại 32 quốc gia và vùng lãnh thổ, cung cấp 16,1% sản lượng điện năng toàn cầu. Điểm mạnh của điện hạt nhân so với các nhà máy sản xuất điện năng truyền thống, như thuỷ điện hay nhiệt điện, là sử dụng rất ít diện tích đất đai, không phát thải khí CO2 và các khí gây hiệu ứng nhà kính, trong khi chi phí cho nhiên liệu, vận hành và bảo dưỡng nhà máy điện hạt nhân chỉ chiếm 20 - 25% giá điện. Do đó, nếu giá nhiên liệu tăng gấp đôi thì giá thành sản xuất điện hạt nhân chỉ tăng thêm 2 - 4%, trong khi giá nhiệt điện có thể tăng đến 60 - 70%... Tuy nhiên, để có được nguồn năng lượng tái tạo, thậm chí là gần như vô tận này, không thể không nói đến những khó khăn ngay trước mặt. Đó là việc vốn đầu tư ban đầu vô cùng lớn. Để có một nhà máy điện hạt nhân công suất 2.000 MW thì số vốn đầu tư ban đầu lên đến gần 4 tỷ USD. Đồng thời, sự thiếu hụt nhân lực có trình độ, kinh nghiệm, nhất là chuyên gia quản lý nhà máy điện hạt nhân, cũng là một trong những thách thức hàng đầu đối với chương trình này.
Nhưng vấn đề điện hạt nhân, tạm coi là nhìn xa trông rộng, thực ra là chuyện của ít nhất 10 năm sau. Còn, ngay tại thời điểm này, có nhiều "sáng kiến" nghe có vẻ rất “lạ” đã được đưa ra, trong đó có đề xuất: "Không nhất thiết sử dụng quỹ đất ít ỏi trong nước để phát triển cây nguyên liệu làm ra Bio diesel, Bio Itanon, ta cần phát triển ra nước ngoài"- Vụ trưởng Vụ Năng lượng – Bộ Công thương, ông Nguyễn Xuân Dịnh còn nói - "Ta có thể thuê đất ở châu Phi, châu Mỹ La Tinh trồng cây nguyên liệu, chuyển về Việt Nam.
Và những cánh quạt gió ngủ yên ở Nam Định
TS Cho Oon Khong, chuyên gia năng lượng
của Shell, một trong những tác giả của “Viễn cảnh tầm nhìn chiến lược
năng lượng Việt Nam đến 2050” từng nhận xét: "Trong chính sách về năng
lượng quốc gia đến 2020 của VN cho thấy, người Việt Nam có nhiều ý
tưởng... hay. Nhưng mục tiêu phát triển năng lượng của Việt Nam đề ra
là hơi tham vọng”. Đầu tư cho những mục tiêu dài hạn và tốn kém nhưng
không có nghĩa là không cần quan tâm đến chuyện sát sườn như giảm tổn
thất điện năng hay có thể bỏ qua hết những gì đã có.
Trong ngành điện, tỷ lệ tổn thất điện năng được xác định chính là thước đo cho chất lượng hạ tầng hệ thống điện và hiệu quả của việc cung ứng điện. Từ cuối năm 2006, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu ngành điện phải hạ tổn thất điện năng xuống mức 8% vào năm 2010. Tuy nhiên, sau 3 năm thực hiện, thay vì nỗ lực phấn đấu đạt mục tiêu 8%, (nếu tỷ lệ tổn thất hạ được từ 10,56% xuống đến 8%, khoản tiền 1.400 tỷ đồng mỗi năm sẽ được thu về), EVN lại có “nguyện vọng” khá ngược đời, thể hiện hẳn trong một đề án 3 năm 2009-2012, là muốn xin Chính phủ cho phép lùi mục tiêu, giãn lộ trình thực hiện nhiệm vụ này. Và thực tế là tập đoàn này đang “xin tăng” tỷ lệ lãng phí điện năng so với mục tiêu của Chính phủ. Lý do mà EVN đưa ra là thiếu vốn.
Tuy nhiên, báo cáo của Kiểm toán Nhà nước cho thấy: Có thời điểm đầu tư ngoài ngành của EVN lên tới hơn 3.590 tỷ, chiếm 7,22% vốn đầu tư, tương đương với khoản tiền dùng để xây dựng một nhà máy nhiệt điện công xuất khoảng 50 MW. Trong báo cáo mới nhất, Bộ Công thương tỏ ra lo ngại về tình trạng hàng loạt công trình điện bị chậm tiến độ từ 6 tháng tới 1 năm. Ước tính từ nay đến năm 2011, trung bình mỗi năm, Việt Nam sẽ bị hụt mất 22-31% công suất điện so với tổng công suất điện cần bổ sung. Cụ thể, việc có tới 8 công trình bị chậm tiến độ sẽ làm nguồn điện quốc gia sẽ thiếu 966MW, chiếm tới 28% tổng công suất cần bổ sung.
Để giải bài toán an ninh năng lượng thì một trong những giải pháp là tiết kiệm điện. Chính phủ, thậm chí từ 3 năm trước đã lập hẳn một Ban chỉ đạo Chương trình Mục tiêu Quốc gia về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả. Cũng trong năm 2009, Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả đã được thông qua. Nhưng người cần phải thay đổi thói quen, cần phải tiết kiệm nhiều nhất là EVN thì lại đang hoang phí nhiều nhất, mà chuyện lãng phí vốn trong việc đưa các công trình điện vào sử dụng đúng tiến độ, hay tổn thất điện năng quá lớn chỉ là những ví dụ nhỏ.
Hồi những năm 90 của thế kỷ XX, với sự trợ giúp của Nhật Bản, Việt Nam đã xây dựng và cho chạy thử thành công trạm điện gió tại bờ biển Hải Hậu, tỉnh Nam Định, với công suất khoảng 30 KW. Theo số liệu của các chuyên gia của Đại học Bách khoa Hà Nội, trạm điện này đã hoạt động với các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật tương đối hấp dẫn. Nhưng bây giờ những cánh quạt gió của trạm điện này đã dừng hẳn khi khu vực xung quanh trạm mọc lên các ngôi nhà ở của dân cao 3-5 tầng che kín mọi hướng gió.